Tài liệu Tọa đàm Lm. Đặng Đức Tuấn – 1. GIỚI THIỆU LINH MỤC GIOAKIM ĐẶNG ĐỨC TUẤN

LINH MỤC GIOAKIM ĐẶNG ĐỨC TUẤN (1806-1874)

Lm. Võ Đình Đệ

Linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn, người con của đất Bình Định, một kẻ sĩ, một danh nhân văn hóa, một tình thương dân tộc, một cuộc đời linh mục đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và kết hợp nhuần nhuyễn nhân, trí, dũng Á Đông với triết lý và thần học Kitô giáo để mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, cho đất nước.

  1. Gia cảnh

Quê tôi Bình Định,

Làng chánh Qui Hoà,

Giữ đạo truyền gia,

Mẹ cha đã mất,

Không lập gia thất,

Có một mình tôi,

Anh em chết rồi,

không còn ai cả[1]

Làng Qui Hoà theo lời Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn khai với quan huyện Mộ Đức như trên, ngày nay là thôn Qui Thuận, xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nơi chôn nhau cắt rốn của Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn vào năm 1806. Xét về phương diện tôn giáo, Qui Hoà hay Qui Thuận đã từng là trung tâm sinh hoạt tôn tôn giáo của địa sở Gia Hựu, một địa sở kỳ cựu, sầm uất của giáo phận Qui Nhơn. Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn là một trong ba người con của ông Đặng Đức lành, một ẩn sĩ làm Câu địa sở Gia Hựu. Gioakim Đặng Đức Tuấn có người anh là Đặng Đức Hoá và người em là Đặng Đức Bình.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống đức tin và văn hoá, Đặng Đức Tuấn đã tỏ ra thông minh, nhanh trí, mỗi đêm có thể học thuộc năm mươi trang sách nho. Năm Ất Dậu (1825), Đặng Đức Tuấn dự Khoa thi Hương tại Thừa Thiên,[2] Ngay từ trường nhất (kinh nghĩa) và trường nhì (chiếu, biểu, luật, dụ), Đặng Đức Tuấn đã đậu thủ khoa nhưng vào trường ba (thơ, phú, văn sách) Đặng Đức Tuấn không may vô duyên với khoa bảng vì chép đề thi sai sót một chữ mà phải chịu lạc đề. Phải chăng cái lạc đề vô duyên ấy như dấu giáng âm để chuyển cung điệu mà Thiên Chúa đã ghi sẳn vào dòng nhạc cuộc đời Đặng Đức Tuấn ?.

Trong khi không đậu bảng vàng, không được thăng quan tiến chức, Đặng Đức Tuấn ở nhà làm giáo làng và sinh sống bình dị như bao người trong làng xóm, thì ở Chủng Viện Penang, Mã Lai,[3] các chủng sinh Việt Nam đang cần thầy giáo Hán Văn. Ngoài những môn học theo qui trình đào tạo linh mục của Hội Thánh, các chủng sinh Việt Nam cần phải có thêm kiến thức Hán văn để có thể đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu học tập ở Chủng viện và truyền giáo tại nước nhà. Thầy giáo Tuấn chưa biết, chưa nghĩ đến nhu cầu ấy của Hội Thánh nhưng Thiên Chúa đã biết, đã nghĩ đến thầy.

  1. Khúc quanh cuộc đời

Nhân chuyến viếng thăm địa sở Gia Hựu, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể ngỏ ý với các chức việc về việc Chủng viện Penang đang cần thầy giáo Hán Văn. Các chức liền giới thiệu giáo làng Đặng Đức Tuấn con ông câu Lành cho Đức cha.

Sau khi được yết kiến Đức cha Stêphanô Cuénot Thể và được biết nhu cầu của Hội Thánh Việt Nam, giáo làng Đặng Đức Tuấn vâng lời nhận lệnh Đức cha và được Đức cha Cuénot đưa vào Gia định, chờ tàu đi Penang. Lúc bấy giờ vào khoảng đầu thời Vua Thiệu Trị (1841-1847).

Đến Penang, thầy Đặng Đức Tuấn được tiếp cận với văn hóa Đông Tây. Vốn tư chất đạo đức, thông minh và bản tính hiếu học, ngoài giờ giảng dạy Hán văn tại Chủng viện Penang, thầy Đặng Đức Tuấn còn chú tâm nghiên cứu học hỏi Pháp ngữ và cả tiếng La tinh là ngôn ngữ căn bản của Hội Thánh. Sau ba năm chì mài học hỏi, thầy Đặng Đức Tuấn đã đạt được trình độ hiểu biết về tiếng La tinh và Pháp ngữ một cách khả quan. Sự tận tụy chu toàn bổn phận của một người thầy, của một kitô hữu và sự hiếu học cũng như đời sống nhân bản của một thanh niên Việt Nam chín chắn, chững chạc đã lọt vào tầm ngắm của người có trách nhiệm đào tạo linh mục cho cánh đồng truyền giáo Việt Nam.

  1. Quyết chọn làm linh mục

Một hôm cha Giám đốc Đại Chủng viện Penang gặp ông thầy dạy Hán văn đang nghiên cứu văn phạm La văn, ngài hỏi: “Con có muốn học để làm linh mục không?” Thầy Đặng Đức Tuấn tỏ ý muốn làm linh mục của mình, song e ngại đã lớn tuổi. Cha Giám đốc hứa can thiệp với Đức cha Cuénot Thể để chuẩn nhận thầy vào chủng sinh của giáo phận. Sau thời gian Cha Giám đốc liên lạc thỉnh ý Đức cha Cuénot Thể và được Đức cha chấp thuận, Chủng viện Penang có thêm một chủng sinh tu muộn già dặn, tinh thông văn tự Đông Tây “vừa học vừa làm”, vừa làm thầy giáo Hán văn, vừa học các môn học của Hội Thánh. Sau bảy năm dùi mài những môn học ở Chủng viện, thầy Đặng Đức Tuấn đã được thụ phong Phó tế.

Sau khi lãnh chức Phó tế ở Đại chủng viện Penang, Thầy Tuấn trở về Việt Nam. Sau một thời gian phục vụ giáo phận, thầy Tuấn được Đức cha Cuénot Thể truyền chức linh mục tại Toà Giám mục Gò thị.[4] Tân linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn được Đức cha Cuénot bổ nhiệm làm việc tại Tư Ngãi (Quảng Ngãi).

  1. Lâm nạn phụng quốc hành

Trong thời gian cha Gioakim Đặng Đức Tuấn làm việc tại Quảng Ngãi, tình hình chính trị trong nước rất bất ổn. Tàu chiến Pháp gây chiến ở Đà Nẵng, rồi Gia Định. Triều đình Huế nghi kỵ người Công giáo. Vua Tự Đức liên tiếp ra các sắc dụ cấm đạo vào những năm 1859, 1860, khắc nghiệt nhất là sắc dụ phân sáp năm 1860 được thực hiện triệt để vào năm 1861. Nhà thờ bị phá hủy, nhà cửa ruộng vườn các tín hữu bị tịch thu, các tín hữu bị bắt phân tán vào các làng mạc. Trước tình thế khắc nghiệt ấy, Cha Đặng Đức Tuấn phải rời nhiệm sở Quảng ngãi, trở về Bình định, rồi lại từ Bình định trở ra Quảng ngãi để vừa lẩn tránh vừa tìm cách thăm nom an ủi  bổn đạo. Đó là sự tính toán và nỗ lực của con người, còn Thiên Chúa có cách ứng xử của Ngài.

Đầu năm 1862, hôm cha Tuấn tạm trú tại nhà hương Côn ở Nga Mân,[5]  tú Quới đến chơi, hai bên hàn huyên tương đắc. Tú Quới ngưỡng mộ cái tài đức và văn học của cha Đặng Đức Tuấn, nhưng đoán biết cha Tuấn là công giáo, nên sợ quan quyền hay biết, không dám ém nhẹm, mà tự mình bắt thì không đành nên kêu làng tới xét hỏi. Làng đòi đóng gông, nhưng Tú Quới bảo lãnh đưa về nhà mình cơm nước. Sáng hôm sau, làng giải giao cha Đặng Đức Tuấn lên huyện Mộ Đức. [6]

Trong thời gian bôn tẩu, nhìn vào thế cuộc, tâm hồn đau xót vì Hội Thánh bị lâm nạn, Nam kỳ bị Pháp xâm chiếm, cha Đặng Đức Tuấn soạn thảo hai bản điều trần: Hoành Mao Hiến Bình Tây sách và Minh Đạo Bình Tây sách, để chờ có dịp dâng lên triều đình.

Trong lúc bị áp giải, Cha Đặng Đức Tuấn vẫn giữ hai bản Ðiều trần này trong gói hành lý cùng với bảo vật tùy thân là tượng Đức Mẹ. Vì sợ quan quân tịch thu xúc phạm đến Đức Mẹ, cha Tuấn đành phải gởi tượng Đức Mẹ vào một bộng cây da bên lề đường.

Sau khi lấy khẩu cung, quan huyện biết tác giả hai bản điều trần là đạo trưởng, cha Đặng Đức Tuấn được chuyển lên tỉnh. Tại tỉnh, cha Tuấn viết tờ khai bằng bài vè bốn chữ, 88 câu (Tư Thừa Khai).[7] Tại tỉnh, cha Đặng Đức Tuấn bị đưa ra công đường tra tấn. Lúc bấy giờ có quan Khâm sai từ kinh đô vào ghé lại tỉnh đường. Quan Khâm sai xem qua bản điều trần thấy có vấn đề quan trọng, quan Khâm sai truyền giam cha Tuấn rồi gởi hồ sơ nội vụ về triều đình. Cha Đặng Đức Tuấn được triệu về kinh đô Huế và được ông Lâm Duy Hiệp, Thượng thư bộ binh cùng Hiệp biện Phan Thanh Giản tra vấn về đạo Công giáo và về giặc Tây đánh phá Việt Nam. Cha Đặng Đức Tuấn thuyết phục hai đại quan bằng tình lý trong sáng với chánh ngôn, chánh lý chặt chẽ. Nhân dịp nầy, Cha Tuấn viết thêm hai bản điều trần xin tha cho giáo dân và hiến kế làm cho dân giàu quân mạnh. Phan Thanh Giản dâng lên cho vua. Vua Tự Đức khen thưởng và nới lỏng lệnh cấm đạo. Vào khoảng tháng 3 năm 1862, cha Đặng Đức Tuấn viết thêm hai bản điều trần nữa, bản thứ năm và thứ sáu về vấn đề cấm đạo và vấn đề kế sách giảng hòa với Pháp.  Cha Đặng Đức Tuấn được vua Tự Đức cử tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương nghị với Pháp.

Cuộc thương nghị khai diễn vào ngày Mồng một tháng Năm, năm Nhâm Tuất, tức ngày 6 tháng 6 năm 1862. Pháp đòi ta bồi chiến phí năm triệu đồng và cắt giao trọn sáu tỉnh Nam kỳ. Thấy điều kiện giảng hoà quá nặng, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp hỏi ý kiến cha Đặng Đức Tuấn. Cha Đặng Đức Tuấn không che dấu mà còn phát huy tư cách linh mục của mình cùng với cương vị là một nhân viên thông ngôn của sứ bộ, cha Đặng Đức Tuấn bày tỏ lập trường cương quyết giữ vững chủ quyền và sự nguyên vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc:

Phan, Lâm đòi Tuấn hỏi han:

Tây xin nhiều quá, Tuấn bàn làm sao?

Tuấn rằng: “Ông lớn lượng cao,

Đòi bồi thì chịu, đừng giao tỉnh thành.

Ý tôi thời vậy đã đành,

Mặc lượng quan lớn quyền hành  chủ trương” .[8]

Sau khi hòa ước được ký kết, vua Tự Đức ra Chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân sáp, giáo dân bị phân sáp được trở về quê cũ và được trả lại điền thổ. Đây là chính sách chung của triều đình, trong đó có phần đóng góp công lao khá quan trọng bằng những lời điều trần của cha Đặng Đức Tuấn.

  1. Cuộc hạnh ngộ với người anh em Linh mục gánh nước thuê.

Thời gian cha Đặng Đức Tuấn ở tại triều đình Huế, cha tạm được tự do một thời gian. Trong những tháng ngày ấy, thỉnh thoảng cha ghé thăm nhà bà Tham ở Gia Hội. Trong nhà bà có một người đầy tớ hầu hạ cơm nước rất lễ phép. Sau đôi ba lần thăm viếng, cha Đặng Đức Tuấn để ý suy nghĩ: “Anh này sao thấy có vẻ quen quen”.

Một hôm đang ngồi ở bàn ăn, Cha Tuấn đăm đăm nhìn vào mắt người đầy tớ đứng ở góc phòng, rồi bạo dạn hỏi: ” mày phải không Thanh?” – “dạ phải” – “Trời đất! Vậy mà bao nhiêu tháng nay tao nhìn không ra”. Nói đoạn cha Tuấn ôm choàng lấy bạn Thanh nước mắt chảy ròng ròng… Thì ra hai anh em Linh mục đã từng học cùng nhau ở Chủng viện Penang (Malaysia), sau bao nhiêu năm dài xa cách, giờ đây mới gặp lại nhau trong hoàn cảnh “hầm trú”  như thế này .

Sau cuộc hội ngộ diệu kỳ của đôi bạn Linh mục, cha Thanh vẫn tiếp tục hành nghề gánh nước thuê. Số là thời Vua Tự Đức cấm đạo gắt gao, cha Thanh cải trang đi gánh nước thuê tại chợ Đông Ba, Huế. Ban ngày làm việc lam lũ, tối về trú ngụ nhà bà Tham, thuộc xứ Gia Hội.

Nhờ gánh nước thuê mà cha Thanh tiếp xúc được với nhiều giáo dân, cho họ chịu các phép Bí tích, Giải tội cho các tín hữu bị giam ở khám đường, nhất là cho những ai sắp ra pháp trường lãnh phúc Tử Đạo. Cha thường trà trộn trong dân chúng, làm dấu sao đó để các giáo hữu nhận ra mình.

Cho đến một hôm, sắc tha đạo được triều đình ban bố, Đức Cha Bình (Sohier) bấy giờ mới ra mắt công khai và chọn ngày làm lễ tạ ơn trọng thể tại Kim Long. Giáo dân khắp nơi hân hoan tựu về mừng lễ thật đông đảo. Cả những vị quan trong triều và người bên lương ở Kinh đô cũng đến xem. Trong lễ hát trọng thể ấy, vị chủ tế không phải là Đức Cha Bình mà là… cha Thanh. Giáo dân xôn xao, người bên lương thì ngạc nhiên khen ngợi và trầm trồ bảo: “Ngỡ là ai, hoá ra cụ Thanh gánh nước thuê ở chợ Đông Ba. Không ngờ ông ta giữ chức vụ to đến thế. Ông ca La tinh thật hay, mà cả ông Tây cũng phải quỳ chầu nữa…”.

Cha Thanh và cha Đặng Đức Tuấn, đôi bạn Linh mục đã tìm ra phương pháp tông đồ cho thời đại mình dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Thần. “Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã xử với Thầy thế nào, cũng sẽ đối với các con như vậy”. Bị nhục mạ, bị bắt bớ, bị truy đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật.[9]

  1. Tín thành cho đến hết hơi cho đến trọn đời linh mục

Ngày 24 tháng 5 năm 1862 , cha Đặng Đức Tuấn được lệnh triều đình cho về quê. Trên đường về, cha Tuấn ghé lại gốc cây da xem lại tượng Đức Mẹ cha đã cất dấu lúc bị áp giải từ Nga Mân lên huyện Mộ Đức như cha đã tường thuật:

Bôn ba về tới huyện trung,

Qua than Bàu Gốc thăm vùng cây da.

Lại xem tượng ảnh Đức Bà,

Hình còn y cựu, bộng đà nhỏ nhoi.

Lấy dao khoét rộng ra coi,

Để vào trong áo ngậm ngùi hân hoan.

Đội ơn Đức Mẹ muôn ngàn,

Giữ gìn con dại bình an trở về.

…..

Tạc ghi ơn Chúa nhớ hoài Mẹ ta.”[10]

Khi cha Tuấn về Bình Định thì Đức cha Cuénot Thể đã bị chết rũ tù, cha Charles Herrengt, Bề trên địa phận, đang ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Cha Tuấn được bề trên bổ nhiệm về xứ đạo Tân Lộc, Quảng Ngãi rồi sau đó vào Mương Lỡ (Hòa Mục ), Bình Định. Năm 1865, Đức cha Eugène Charbonnier bổ nhiệm cha Gioakim Đặng Đức Tuấn làm cha sở Nước Nhỉ, một xứ đạo bên bờ đầm Trà Ổ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Lúc bấy giờ xứ Nước Nhỉ không có nhiều giáo dân, năm 1850 Nước Nhỉ có 132 giáo dân và họ Suối Lâm 78 giáo dân. Ngoài việc truyền giáo và chăm sóc mục vụ cho giáo dân, Cha đã dành thời gian viết nhiều tác phẩm bằng thi ca, đặc biệt hun đúc giáo dân Nước Nhỉ có lòng sùng kính Đức Mẹ rất sốt sắng. Trong thời gian cha Tuấn ở Nước Nhỉ, vua Tự Đức triệu mời cha về kinh đô Huế hai lần để tham vấn về việc nước.

Ngày 24 tháng 7 năm 1874, Cha Gioakim Đặng Đức Tuấn trút hơi thở cuối cùng tại nhà thờ Nước Nhỉ, ấp Chánh Khoan, xã Mỹ Lợi, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Một kẻ sĩ, một kho tàng văn hóa, một tình thương dân tộc, một cuộc đời linh mục đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và kết hợp nhuần nhuyễn nhân, trí, dũng Á Đông với triết lý và thần học Kitô giáo để mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, cho đất nước đã kết thúc, nhưng gương sáng và việc lành của cha còn đó. Cha được an táng tại khuôn viên nhà thờ Nước Nhỉ. Thương nhớ cha, giáo dân lập một  bàn thờ Đức Mẹ bên mộ cha. Sau giờ kinh tối thứ bảy hằng tuần, giáo dân quây quân bên mộ cha và bàn thờ Đức Mẹ để cha con cùng đọc kinh kính Đức Mẹ như thể lúc cha còn sống bên đoàn chiên vậy. Thói quen nầy được giáo dân Nước Nhỉ gọi là chầu lầu, được giữ mãi cho đến khi di cư (1966). Năm 1905, nhà thờ Nước Nhỉ được cha Jean Marie Guéno dời đến vị trí mới. Mộ cha Đặng Đức Tuấn được cải táng về Lăng Tử Đạo Nước Nhỉ, vị trí hiện nay.[11]

  1. Những tác phẩm của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn:

+ Giáo sư Lam Giang và Linh mục Giuse Võ Ngọc Nhã đã sưu tập các di cảo của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn:

  1. Việt Nam Giáo Sử Diễn Ca : Lược thuật lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam từ thời hậu Lê cho đến chỉ dụ phân sáp của vua Tự Đức.
  2. Lâm Nạn Phụng Quốc Hành : Thuật lại những sự kiện từ khi bị bắt ở Nga Mân đến lúc vua Tự Đức ra chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân sáp.

Hai thi phẩm trường thiên nầy cho thấy khả năng kết hợp tài tình của cha Đặng Đức Tuấn giữa các thể thơ lục bát, song thất lục bát và thất ngôn đường luật. Đồng thời cho thấy nghệ thuật trình bày hấp dẫn của cha. Nơi “Việt Nam Giáo sử Diễn Ca”, cha dùng thuận tự pháp trình bày các sự kiện lịch sử theo thứ tự thời gian. Nơi “Lâm Nạn Phụng Quốc Hành”, cha dùng nghịch tự pháp thuật lại các sự kiện không theo thứ tự thời gian nhưng đột ngột lấy những sự kiện làm điểm nhấn rồi qua đó trình bày đầu đuôi ngọn nguồn. Nơi “Việt Nam Giáo sử Diễn Ca”, cha kết thúc nơi cái chết của Đức cha Cuénot Thể, cái chết gây xót xa trong lòng người thì nơi “Lâm Nạn Phụng Quốc Hành”, cha kết thúc nơi chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân sáp của vua Tự Đức, một kết thúc gây cảm giác phấn khởi. Hết bỉ cực đến thái lai, từ tử nạn đến phục sinh là qui luật của sự sống mà cha Gioakim Đặng Đức Tuấn đã ngấm ngầm diễn tả nơi hai thi phẩm trường thiên nầy. [12]

  1. Hoành Mao Hiến Bình Tây Sách
  2. Minh Đạo Bình Tây Sách

Hoành Mao Hiến Bình Tây Sách và Minh Đạo Bình Tây Sách là hai bản điều trần được viết trước khi bị bắt. Bốn bản khác được viết khi cha bị giữ ở triều đình hiện nay chưa được tìm thấy, chỉ biết được có bốn bản nầy qua tường thuật của cha trong “Lâm Nạn Phụng Quốc Hành”.

  1. Nguyên Đạo : Bản văn ngắn gửi cho bộ Binh trình bày nguồn gốc Kitô giáo.
  2. Văn Tế Đức Cha Thể : Thể hiện tâm tình với Đức cha Cuénot.
  3. Minh Dân Vệ Đạo Khúc : Trình bày chân lý Kitô giáo nhằm đáp  lại bài “Hoán mê khúc” của quan Án sát Ngụy Khắc Đản đã hiểu sai về Kitô giáo.
  4. Kim Thạch Giải Sầu Ca : An ủi giáo dân trung thành với đức tin Kitô giáo .
  5. Cách Ngôn Liên Bích : Chỉ dẫn giáo dân xử thế lập thân, sống đạo bằng những những câu cách ngôn có nội dung từ Tin Mừng và tục ngữ ca dao.
  6. Văn Tế Các Đẳng : Thương nhớ những người quá cố.
  7. Minh Tâm Linh Số : Bài thơ chữ Hán thể thất ngôn, chữ đầu của câu thơ là một chữ số nói về một chân lý đức tin.

12.Thống Hối Đề Ngâm : Gồm 76 câu thơ lục bát nói lên sự cần thiết và lý do thống hối lỗi lầm.

  1. Cải Quá Tự Tân Luận : Trường thơ lục bát khuyên giáo dân chừa bỏ Bảy mối tội đầu.

+ Ngoài ra cha Đặng Đức Tuấn còn để lại nhiều bài văn thơ chữ Hán liên quan đến vấn đề quốc sử và giáo sử như Nguyễn vương phục quốc, Gia Long thống nhất, Những ngày truyền giáo đầu tiên, Việc cấm đạo thời Minh Mạng, Thiệu Trị[13]

+ Tân Cựu Sấm Truyền Lục Bát Kinh Văn[14]

Cha Phaolô Lê Đình Ban, chủ bút Tạp chí “Chức Dịch Thơ Tín”, tạp chí của địa phận Kontum, người dịch tác phẩm của cha Đặng Đức Tuấn từ chữ nôm sang Quốc ngữ, đã viết như sau:

“Nầy là cuốn sách tóm lại sấm truyền cũ mới, của cha Đặng-đức-Tuấn đặt ra lục bát bằng chữ Nôm. Ký giả lấy làm hay lắm, nên dịch ra in vào thơ tín nầy, cho quới vị khán quang coi, cũng là đều hữu ích. Sau sẽ in thành một sách nhỏ, để trẻ em học lẽ đạo. Vì người mình hay ưa cách vè vãn, lại sách nầy cũng là của cha Khâm [Đặng-đức-Tuấn] là đấng có danh tiếng đã làm, sợ bỏ đi mất uổng”.[15]

 

[1] GS. LAM GIANG & LM. VÕ NGỌC NHÃ, ĐẶNG ĐỨC TUẤN Tinh hoa Công Giáo ái quốc, 1970, Trang 134.

[2] Theo ‘Châu Bản Triều Nguyễn, triều Minh Mạng, năm thứ 7, tập XX, trang 129’ và ‘ Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục, bản dịch Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Thị Lâm, nxb Tổng hợp Tp. HCM, 1993’: Năm 1813 Vua Gia Long cho mở cuộc thi hương ở Bình Định cho các sĩ tử trong vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, khánh hoà. Từ năm 1821, các sỉ tử  từ đèo Cả trở ra phải thi ở Thừa Thiên cho đến năm 1850, triều đình cho lập trường thi ở Bình Định.

[3] Đây là Chủng viện được các thừa sai MEP. thành lập để đào tạo Linh mục cho vùng truyền giáo Á Châu. Lúc ban đầu được thành lập tại Thái Lan vào năm 1665. Qua dòng thời gian, Chủng viện được di dời nhiều nơi. Năm 1807, Chủng viện được đặt tại Penang, Malysia.

[4] – Trong lời khai của cha Tuấn năm 1861 “ Khi về nước Nam, tôi ra Tư Ngãi, ở đây ngũ tải, giảng đạo Chúa Trời…”. Như vậy trước khi cha Tuấn bị bắt, cha Tuấn đã làm việc tại Tư Ngãi ( Quảng Ngãi ) được 05 năm. Như thế cha Tuấn thụ phong linh mục vào năm 1856; đi Penang năm 1846.

– Mémerial Mission de Qui Nhơn, No.62, 19 Mars 1910, p. 13. trong dách sách các cha được Đức cha Thể truyền chức linh mục từ năm 1850, có ghi cha Khâm quê Gia Hựu, chết ở Nước Nhỉ. Cha Tuấn được giáo dân và các thân hào gọi là cha Khâm vì ngài được triều đình cử đi cùng với hai vị đại quan Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương thuyết với Pháp về việc nước.

[5] Ngày nay là thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Thôn Nga Mân hiện nay là trung tâm của xã Phổ Cường, có đường sắt Bắc Nam và quốc lộ I đi ngang qua. Về địa bàn tôn giáo, Nga Mân thuộc địa sở Trà Câu. Ngày nay thuộc giáo xứ Bàu Gốc, Quảng Ngãi.

[6] Lúc cha Tuấn bị bắt, Nga Mân thuộc châu Đức Phổ, huyện Mộ Đức. Huyện Đức Phổ được thành lập năm 1899.

[7] GS. LAM GIANG & LM. VÕ NGỌC NHÃ, ĐẶNG ĐỨC TUẤN Tinh hoa Công Giáo ái quốc, 1970, Trang 134-137.

[8] Xem GS. LAM GIANG & LM. VÕ NGỌC NHÃ, Sđd. Lâm nạn phụng quốc hành, phần III, câu 73-78.

[9] Xem HY. F.X. NGUYỄN VĂN THUẬN, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, § 14. Tông đồ, 4. Cha gánh nước thuê.

[10] Xem GS. LAM GIANG & LM. VÕ NGỌC NHÃ, Sđd. Trang 164.

[11] Khu Lăng mộ nầy được gọi là Lăng Tử Đạo, nơi an táng cha Auguste-Henri Macé Sĩ và giáo dân Nước Nhỉ bị Văn Thân sát hại năm 1885. Tại khu lăng mộ nầy còn có mộ cha cha Phaolô Phan Văn Thoàn qua đời năm 1921 và mộ

cha Simon Võ Thọ qua đời năm 1948. (Xem thêm Lam Giang – Võ Ngọc Nhã, sđd, trang 15-16).

[12] Xem GS. LAM GIANG & LM. VÕ NGỌC NHÃ, Sđd, trang 27-28.

[13] Vũ Thu Hà & Nguyễn Ngọc Quỳnh, Linh mục Đặng Đức Tuấn và cuốn sách Thuật Tích Việc Nước Nam, Thông báo Hán Nôm học 2003, trang 210-222.

[14] Tạp chí Chức Dịch Thơ Tín, nhà in Địa phận Kontum từ No 6, Octobre 1933 đến No 19, Novembre 1934.

[15] Phaolô Ban, Chức dịch thơ tín, nhà in Địa phận Kontum, No 6, Oct. 1933, tr. 68.