Làm vườn nho cho Chúa: 34-V13-Niềm vui làm con chiên của Chúa

MÃ SỐ: 34-V13

NIỀM VUI LÀM CHIÊN CON CỦA CHÚA

            Kể từ hôm ấy, Hà trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc cho gia đình và  tình yêu trong cung lòng của Giáo hội.

            Được sinh ra và lớn lên trong một ngôi làng nghèo mang tên “Xóm cây bàng”, Hà thật hạnh phúc khi được ba mẹ yêu thương và dạy dỗ hằng ngày. Xóm cây bàng mà chả thấy hình dáng của một cây bàng nào cả, từ đầu trên đến xóm dưới chỉ thấy toàn những bụi tre chằng chịt như muốn che kín cả một bầu trời trong sáng. Nghe đâu đó, người ta bảo nhau rằng lúc trước có rất nhiều cây bàng được trồng ở nơi đây nhưng sau nhiều trận bão ùa về thì chỉ còn sót lại một vài gốc cây bàng khô trơ trụi không còn chiếc lá. Nên bèn dân chúng trong làng đua nhau trồng tre để có thể giữ làng, giữ nước và nhất là giữ vững được mái nhà tranh. Nơi mà họ ẩn náu và được lớn lên từng ngày.

            Bà con trong ngôi làng này đa số theo đạo Phật. Đối với họ, ai đi theo đạo Chúa coi như bị cô lập. Vậy mà giữa những ngôi nhà chen chút nhau trong khu làng ấy, lại nổi lên một gia đình nghèo theo đạo Chúa, đó chính là gia đình em Hà. Em là người con duy nhất trong gia đình gồm ba người. Ba em là người đạo theo nên chi việc đọc kinh sách hay tham dự thánh lễ xem ra rất thờ ơ và nguội lạnh. Chị Lan, mẹ của Hà, từ khi về chung sống với chồng cuộc sống đạo đức thiêng liêng của chị cũng bị cắt đoạn liên tục. Lúc mới cưới, anh hứa sau này sẽ cho chị và các con đi dự thánh lễ hằng ngày và tham dự các sinh hoạt bên nhà thờ nhà thánh. Thế nhưng, thời gian trôi qua như vô tình để lại trong lòng anh một nỗi oán hận sâu sắc mà anh không thể bỏ qua được. Từ đó vọng lại nơi tâm hồn anh hai tiếng “Bỏ Đạo’.

Nhớ hồi ấy, anh là một người rất hăng say trong công việc nhà Chúa. Khi nào cha sở cần thì anh sẵn sàng lên giúp ngài bất kể dù là những ngày hè oi bức hay nhiều đêm mưa dầm đi chăng nữa. Anh mến cha sở vì tin Chúa đã yêu thương vợ con anh. Thế nhưng, sự việc không hay lại xảy đến với anh. Hôm ấy, vào một ngày trong tuần trước đại lễ mừng Chúa Giáng sinh. Theo thông lệ, mọi người giáo dân đều đóng góp ủng hộ tiền mừng lễ Chúa Giáng sinh như lời cha sở đã kêu gọi. Như bao người, gia đình anh cũng hưởng ứng lời mời gọi ấy của cha sở, mặc dù anh biết anh không có được nhiều tiền như những người sống ven thành phố ở bên kia nhà thờ, thế nhưng anh cũng đã giành được một số tiền nhỏ đủ dâng lên cho Chúa. Đó là cả tấm lòng thành anh muốn dâng lên Chúa lúc này.

 Mấy ngày sau, khi nghe tin thùng tiền mừng lễ Chúa Giáng sinh không cánh mà lại bay khiến cho cha sở và mọi người xầm xì bàn tán. Ai ai cũng nghi ngờ lẫn nhau. Họ bàn tán và đinh ninh rằng thằng Hồ, chồng con Lan ở xóm cây bàng lấy cắp chứ không ai hết.

Lời này đã lọt tới tai anh Hồ. Anh tức lắm. Anh không biết phải biện minh và xin mọi người đừng nghĩ sai về anh như thế nào, bởi anh cam đoan anh không bao giờ đụng tới thùng tiền ấy mặc dù anh biết gia cảnh anh nghèo và túng thiếu. Đã vài lần, anh ra trước Hội Đồng Giáo xứ có sự hiện diện của cha sở để anh minh oan cho nỗi bất bình này nhưng sau đó mọi việc lại diễn ra như đường xưa lối cũ. Mọi người lại nghĩ về anh và tiếng vang này lại dội ra khắp cùng làng ngõ xóm. Anh lại buồn và càng tức giận hơn vì cha sở không đứng về phía anh và bảo vệ cho anh hầu giúp anh lấy lại thanh danh cho mình. Anh lại căm ghét mọi người bởi lẽ họ sống đạo mà không biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, điều này thật trái ngang với bản chất của đạo Chúa mà anh đã học biết từ trước là: Mến Chúa và yêu người.

Cuộc đời có lúc vui đôi khi xen vào đó là những bản nhạc buồn miên man. Anh Hồ càng nghĩ về điều đó lại càng thấy tức giận trong lòng. Hằng ngày, anh mượn vài ba chén rượu để giải sầu. Đối với anh, giờ này chỉ có rượu là người bạn thân thiết nhất cho cuộc đời này. Từ đầu làng tới cuối xóm, đâu đâu ai cũng trông thấy bóng dáng của một kẻ nghiện rượu. Đôi tay anh run rẩy không cầm gì được nhưng chai rượu thì cứ bám sát bên anh như đôi bạn tri kỷ vậy. Anh vừa đi vừa chửi, anh trách đời sao trời cao lại không có mắt để tôi phải chịu mang tai tiếng như thế này? Những giọt nước mắt của anh đã rơi xuống đất và thấm vào những khe đá nhỏ ven bờ đê như muốn gửi nỗi đau xót xa này về với lòng đất mẹ. Chỉ có mẹ đất mới hiểu được nỗi buồn của anh trong giây phút này mà thôi.

Từ khi vợ anh có đứa con đầu lòng, anh vui vẻ và lấy làm vui bởi từ đây anh chính thức được làm cha rồi. Anh lo cho con cái được học hành và nuôi dạy cho con được nên người đó là ước muốn và là bổn phận của người làm cha làm mẹ. Hà, con gái của anh đang là một đứa học sinh giỏi và là trưởng lớp của lớp giáo lý Căn Bản 2 tại Giáo xứ. Vì tức giận cha sở và cộng đoàn dân Chúa, anh cấm Hà không được bước chân tới nhà thờ để đọc kinh, dự Thánh lễ hay học giáo lý. Riêng phần chị Loan, anh cũng thế nhưng lời cảnh cáo của anh dành cho chị lại có phần nghiêm trọng hơn, anh nói:

– Từ nay, tao cấm mầy không được bước chân tới cái nhà thờ khốn nạn ấy nữa. Tao mà nghe tin mầy hiện diện ở đó thì liệu hồn mầy với tao, hỡi những kẻ giả hình?

Lời anh đay nghiến như một vật gì đó trông rất sắc bén đang đâm thấu tâm hồn chị. Chị liền van lơn:

– Anh à! Chuyện gì còn có đó bây giờ cha sở và mọi người chưa hiểu thấu lòng anh lỡ đâu một ngày nào đó Chúa sẽ giúp họ nhận ra đâu là sự thật và anh được minh oan thì sao?

Cắt ngang lời chị nói, anh dang rộng bàn tay dồn hết lực và tát cho chị một cái vào mặt như một cú sét đang giáng xuống trên đầu chị. Chị loạng choạng và ngã sấp mặt xuống đất. Chị ngất xỉu một hồi lâu.

 Trông thấy thế, Hà liền chạy tới và ôm lấy mẹ mà khóc nức nở. Còn Hồ, anh thẫn thờ bước đi mà lòng không chút bận tâm về vợ con anh tí gì. Bỗng chốc căn phòng trở nên tối đen.

Ngày này tháng nọ dần trôi qua, hai mẹ con lại cứ nâng đỡ nhau mà sống qua ngày. Chị thì đi phụ làm thêm để kiếm tiền tại một quán ăn ở đầu làng, ngày rãnh rỗi thì chị hay đi mò cua bắt ốc để lo cho bữa cơm gia đình. Còn anh thì cứ sáng sỉn chiều say tối đến lại ngã lăn ra sàn nhà mà ngủ. Chị cũng chẳng thích bận tâm đến chuyện ấy làm chi. Nghỉ tới chỉ thấy đau khổ thêm thôi. Còn cái Hà, từ khi có mấy Dì thuộc Cộng đoàn Mến Thánh giá Qui Nhơn về giúp xứ thấy em ấy càng hăng say giúp ích cho công việc nhà Chúa hơn. Nhiều lần, mấy Dì quan tâm hỏi Hà:

– Ủa sao con không vô học giáo lý và đi dự Thánh lễ như các bạn ở trong nhà thờ mà con lại đứng ở ngoài này?

Hà ấp úng không dám trả lời vì sợ ba la và cho ăn một trận đòn nếu không nghe lời ba dặn. Một hồi lâu, tình thương xót của mấy Dì cũng đã chạm tới trái tim em, em kể lại câu chuyện buồn ấy cho mấy Dì nghe. Càng nghe mấy Dì càng thấy thương cho gia cảnh và mong sẽ đem lại niềm vui và sự bình an tới gia đình em.

Theo đường chỉ dẫn của Hà, mấy Dì cũng đã tới được nhà em. Một ngôi nhà tranh, tường được làm bằng đất sét trông rất nghèo làm sao. Sau một tiếng đồng hồ, mấy Dì đã có được một cuộc nói chuyện thân mật với chị Lan và anh Hồ. Lúc đầu anh rất khó chịu và bực tức vì con gái dám dẫn người lạ vào nhà, hơn nữa họ lại là ‘lính của cha sở’. Nhưng sau đó, anh đã thay đổi lòng mình, anh chịu khó lắng nghe lời mấy Dì nói và sự khuyên bảo của mấy Dì là hãy quay trở về với Chúa, vì Chúa hằng thương anh cũng như vợ và con gái của anh. Riêng phần Hà, chúng tôi sẽ nhận dạy dỗ và hướng dẫn em trên con đường Thánh đức. Tin lành đồn xa, mấy ngày sau, cha sở cùng toàn thể Hội Đồng Giáo xứ cũng đến tại gia đình anh và gửi lời xin lỗi chân thành đến anh. Cha sở cho hay:

– Tự nhiên, thứ Năm vừa rồi có một người không thuộc giáo xứ mình, anh ta đã đến giáo xứ và anh ta nói rằng:

– Thưa cha, con đã đánh cắp thùng tiền mừng Chúa Giáng sinh của giáo xứ này từ mấy tháng trước. Nay con thú tội với cha xin cha bỏ qua và tha thứ cho con.

– Cha nghe và buồn trong lòng lắm. Vì từ đầu, cha đã không đứng về phía con mà lại còn suy nghĩ không tốt về con nữa. Cha thật đáng trách!

– Hôm nay, đúng như ý Chúa muốn qua sự cộng tác của mấy Dì và lời thú tội kia, cha đã tìm ra được sự thật và nay cha tới đây để gửi lại sự thật, ánh sáng ấy cho con và gia đình nhờ ơn Chúa giúp. Riêng phần con, con hãy tiếp tục chung tay với công việc của nhà thờ và năng đến với cha con nhé! Cha nhớ con nhiều lắm!

Lời cha như lời hát ru làm êm ấm cõi lòng người ta. Anh lao thẳng tới cha và ôm chầm lấy cha mà khóc. Anh nói với cha rằng:

– Thưa cha, cho con xin lỗi cha và mọi người vì con đã lỗi phạm tới Chúa và đến cha cũng như mọi người. Xin cha và quý vị rộng tình thứ tha và đón nhận con như một người con của giáo xứ.

Căn phòng bỗng vui trở lại. Mọi người vỗ tay và kêu xin ơn Chúa tiếp tục gìn giữ gia đình này. Vì từ đây, giáo xứ chúng ta lại được đón nhận một người con thân yêu đã đi xa nay lại trở về với Chúa và ở lại với chúng ta.

Còn tại Hội Dòng Mến Thánh giá Qui Nhơn kia, Hà đã được mẹ Bề trên tiếp nhận vào nhà Dòng. Từ đây em không còn phải bận tâm về gia đình nữa bởi có Chúa đã thay em coi sóc và ở lại trong gia đình rồi. Ngày em đội chiếc lúp trên đầu và khoác chiếc áo dòng màu đen, màu của sự tang tóc và đau thương để rồi qua đó em biết chết cho tình yêu và chết cho cuộc đời để tình yêu Chúa Kitô chịu đóng đinh ngày thêm tuyệt vời hơn. Ba má em cũng lấy làm hãnh diện trong tình làng nghĩa xóm, bởi từ đây con gái mình đã thuộc về Chúa và Chúa đã thuộc về con gái. Đôi vợ chồng ấy tự nhủ thầm rằng:

– Phận làm ba má phải biết siêng năng đọc kinh cầu nguyện và sống hy sinh nhiều hơn nữa để con gái mình được vui.

Kể từ đây, gia đình Hà được vang danh khắp xóm làng. Đi đâu cũng nghe thấy tiếng ngợi khen, hoan hô của mọi người:

– Gia đình thằng Hồ và con Lan thật có phước, bởi Chúa đã đến và thăm viếng ngôi nhà này.

Hình ảnh một thằng đàn ông say rượu, đánh vợ chửi con nay đã rời xa thay vào đó là hình ảnh của ông bà cố thật nghiêm trang và thánh thiện dường bao. Về phần Hà, em được quý chị em yêu mến và em đã tìm thấy được một tình yêu đích thực trong cuộc đời dâng hiến của mình. Một tình yêu mà không một ai ở trần gian này có thể sánh được. Ôi hồng ân Chúa thật bao la. Tạ ơn Chúa vì Ngài hằng ở bên và gìn giữ cuộc đời con. Kể từ ngày hôm ấy, Hà mỗi lúc càng lớn khôn và càng được sống trong ơn nghĩa cùng Chúa hơn.